Abstract
Grounded on cognitive – emotions theory and using netnography methods combined with grounded theory in qualitative research, this article expand and explore the boycott bahavior model. Findings explore 12 emerged categories from qualitative data; 6 new categories include “boycott calls”, “disgust”, “apathy”, “contemporary relationship animosity beliefs”, “historical relationship animosity beliefs” and “patriotism”
Highlights
Dựa trên sự ác cảm của người dân Trung quốc đối với sự tàn ác của quân đội Nhật trong chiến tranh thế giới lần hai ở Nam Kinh, Klein & cgs. (1998) đã đề xuất khái niệm “sự ác cảm của người tiêu dùng”, kết quả kiểm định mối quan hệ giữa khái niệm này với “hành vi sẵn lòng tẩy chay” đã mở ra một lý thuyết mới đóng góp vào TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ Q4- 2015 lĩnh vực hành vi tiêu dùng [1]
using netnography methods combined with grounded theory in qualitative research
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy thang đo “niềm tin ác cảm chiến tranh” chỉ thể hiện một khía cạnh rất nhỏ về mặt nội dung liên quan đến sự đánh giá của người tiêu dùng Việt nam đối với mối quan hệ giữa Việt nam và Trung quốc; Thành phần “đánh giá ác cảm mối quan hệ hiện tại” và “đánh giá ác cảm mối quan hệ lịch sử” là một minh chứng thách thức tính khái quát hóa đối với khái niệm của các tác giả đi trước đề xuất xét riêng về mặt giá trị nội dung
Summary
Dựa trên sự ác cảm của người dân Trung quốc đối với sự tàn ác của quân đội Nhật trong chiến tranh thế giới lần hai ở Nam Kinh, Klein & cgs. (1998) đã đề xuất khái niệm “sự ác cảm của người tiêu dùng”, kết quả kiểm định mối quan hệ giữa khái niệm này với “hành vi sẵn lòng tẩy chay” đã mở ra một lý thuyết mới đóng góp vào TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ Q4- 2015 lĩnh vực hành vi tiêu dùng [1].
Published Version (Free)
Talk to us
Join us for a 30 min session where you can share your feedback and ask us any queries you have